Nhân kỷ niệm Ngày của Cha (19/6) và Ngày Gia đình Việt Nam (28/6), Tiin.vn tổ chức cuộc thi 'Về nhà thôi' nhằm tôn vinh tình cảm gia đình, là cầu nối giúp những người con nói lên nỗi lòng của mình với cha mẹ hay kể câu chuyện về chính gia đình của mình. Để cùng nhau chúng ta sẽ lan tỏa những yêu thương, ấm áp trong tháng của gia đình.
Độc giả có thể gửi bài dự thi về hòm mail: Duthi@tiin.vn (ghi rõ họ tên, địa chỉ, SĐT liên hệ). Bài dự thi có thể thực hiện dưới hình thức sau: bài viết hoặc thơ (kèm ảnh), bộ ảnh (kèm nội dung câu chuyện) hoặc video, tranh vẽ. Bài dự thi yêu cầu chính chủ, chưa đăng tải ở bất cứ đâu, không sao chép dưới mọi hình thức.
Bài dự thi của tác giả Bùi Việt Phương (Hoà Bình)
Những đám mây vần vũ trên kia và khói bụi, người xe dưới này như đè nặng xuống chiều cuối tuần. Vừa lúc tôi tra chiếc chìa nhôm cong cớn vào ổ khóa hoen rỉ nắng mưa của phòng trọ thì bà chủ nhà gọi: “Mày có điện”. Bên kia đầu dây là tiếng mẹ tôi: “Thôi, về đi con”.
Nhưng thật ra chẳng phải lần đầu nghe mẹ nói thế nên tôi không về.
Về quê với tôi là đi ngược lại quá khứ, chẳng phải đúng thế sao? Mất cả ngày trời, cái xe khách cũ kĩ mới leo được mấy trăm cây số dốc đèo để về đến phố huyện lúc nhá nhem tối. Chưa hết, lại còn phải cuốc bộ thêm vài cây số đường đồi mới đến nhà. Đập vào mắt tôi luôn là một “cõi khác”.
Đứa em bé nhỏ lúc nào cũng lăn lê cùng mấy con chó Mông cộc, mấy con dê thả đồi. Một cái vỏ kẹo đẹp nó cũng không nỡ vứt đi, một hộp bánh nó giữ cả năm không méo mó. Từ cái ấm, cái chén đến những câu chuyện trong bữa cơm gia đình tôi đều cũ kĩ, cóc két từ mấy mươi năm trước.
Nhà tôi hồi ấy không ti vi, tủ lạnh, không đài cassette, cũng chẳng có nổi một tờ báo cũ. Thứ duy nhất kết nối với thế giới là lốc lịch treo trên tường để biết tháng ngày. Ôi! Không phải yêu thương nào ta cũng có thể trở về. Tôi nghĩ rất tỉnh táo: biết bao khoai sắn của những vụ giáp hạt, những năm cuối bao cấp, biết bao mồ hôi cha mẹ tôi mới nâng đỡ, mới đưa tôi được đến thành phố hôm nay. Trở về sẽ là thất bại của cả một gia đình.
Nhưng cả gia đình lại nghỉ tôi ở thành phố cực nhọc hơn họ. Cứ nghĩ đến đường đông nghẹt, bát cơm bụi vỉa hè và lẫn bụi bặm, khói xăng, mớ rau héo, cốc nước đục… mẹ tôi lại xót xa gửi thêm chút tiền lẻ. Cha tôi thì lại cố đi bắt ong rừng trong đêm, cố đi đào gốc cây, bắt rắn, bán cây… họ chỉ mong có thêm tiền và mong tôi đem cái bằng đại học trở về. Con người ta học có 4 năm, con mình đã hơn 6 năm sao chưa thấy gì?
Đó là những năm giao thời giữa mới và cũ. Con người ta vừa ranh ma, hào hứng đón nhận những thay đổi mới vừa ngờ ngệch vì chưa thoát khỏi nếp nghĩ cũ. Thật ra tôi đã ra trường hai năm nhưng hoàn toàn thất bại trong chuyện xin việc. Nơi thì đòi hỏi quá cao như bằng tiếng Anh, máy ảnh, xe máy; nơi lại giả lương quá bèo bọt. Tôi như người bị dòng nước lũ mưu sinh chảy xiết cuốn đi, càng cố bám víu càng tuyệt vọng.
Cho đến khi, gặp được P, một tình yêu bất ngờ giữa lúc đang rầu rĩ vì cơm áo. P xinh và trong trẻo nhưng lại khái tính. Một tiểu thư nhà giàu chỉ bằng lòng yêu một chàng “hoàng tử cóc” như tôi vào những năm cuối thế kỉ XX với một điều kiện: Anh ta phải chịu nổi những trò khác người của cô. Tôi từ đi trong mưa, hái trộm đòng, ăn kem ngày đại hàn… không gì là không nếm trải.
Bẵng đi mấy năm, tôi vẫn cố “đánh đu” với đồng tiền nơi thành phố để yêu P và giữ cho mình cái tiếng là người lập nghiệp ở phố. Bởi thế, chẳng có lí do gì đủ lam tôi lay động để trở về. Cho đến một ngày, sau khi chìm trong giấc ngủ của cơn mưa đêm mùa hạ và để điện thoại ở chế độ rung, tôi nhận được ba tin nhắn khi tỉnh giấc: Một là của cậu tôi (vì cha tôi không có điện thoại di động): “Gọi cháu không được, cậu báo tin đang đưa mẹ xuống Hà Nội cấp cứu…”.
Tin nhắn thứ hai: “Thằng H mất tích rồi, tiền của bọn mình giờ thế nào?”. Tôi lẩm bẩm: mất là mất chứ sao? Bao năm tích góp hùn vốn, bán cả mấy chỉ vàng mẹ tôi đưa thế là hết. Nhưng tin nhắn thứ ba mới đáng nói. Thực ra đó là một tin vui của ai đó nhưng chết lặng trong tôi: “Mày ơi, cái P tuần sau ăn hỏi rồi. Thế là sao hả mày. Mày không phải chú rể của nó à?”.
Khi đọc đến những dòng này hẳn nhiều người sẽ tự hỏi: tôi của ngày hôm đó sẽ làm việc nào trước? Chắc chắn là đến thẳng bệnh viện nơi có chiếc xe cấp cứu đang trở mẹ, còn tình yêu và tuổi trẻ là chuyện tầm phào. Nhưng không hiểu sao khí đó tôi bình thản đến lạnh lùng, tôi vẫn tìm gặp P trước.
P không vui, không buồn, không tỏ ra lạnh nhạt với tôi. Nàng như một triết gia: “Yêu thương biết bao nhiêu cho đủ, biết đủ là đủ. Em và anh đã yêu đủ, không phản bội, không lừa dối, không tiếc nuối. Nhưng còn bây giờ là hôn nhân. Hôn nhân không hề giống tình yêu. Mong anh hiểu và chúc phúc cho em…”.
Tôi đến bệnh viện khi các bác sĩ đã đóng cánh cửa để can thiệp y tế. Ở nơi mà người ta chỉ có thể chờ đợi ở sự may rủi, tôi nhận ra trên gương mặt mình đang có một nụ cười. Có thể không ai nhìn thấy tôi cười, nụ cười mỉa mai ấy tôi dành cho chính mình.
Tôi đang là người xui xẻo hay may mắn, thất bại hay thành công? Chỉ biết rằng sau bao lặn lội, đắng cay, đời còn có mẹ. Ai cũng có mẹ để trở về, để nhận ra mình có đi xa đến mấy, có từng trải đến mấy vẫn chưa ra khỏi cánh tay của mẹ, ánh mắt dõi trông của mẹ.
Nhưng tôi vẫn chưa chịu trở về.
Tôi ném mình vào công việc, làm như một kẻ ham tiền và tự đầy đọa, giam cầm mình. Tôi biến tôi thành tên tù khổ sai của những năm tháng tuổi trẻ. Từ bốc vác thêm, dạy gia sư đến viết lách, vẽ vời… tất cả những gì mà một anh họa sĩ có thể làm được tôi đều không nản. Tôi phải có được thứ gì, phải làm được điều gì giữa phố phường này. Người đón tôi là một nhà báo-nhà văn đã trung tuổi. Nhìn chất vải anh ta mặc, tôi biết nó là hàng hiệu, nói lên chất lượng sống của một người thành đạt. Anh bảo tôi hãy về viết những gì tâm đắc nhất, cay đắng nhất rồi gửi, mọi thứ dễ lắm. Tôi hào hứng cắm đầu vào viết, bỏ mọi mối làm ăn để tu chí thành nhà văn theo cái cách đi tắt đầy sang trọng mà anh ta nói ấy.
Nhưng sau một thời gian nhốt mình trong phòng trọ nóng hầm hập và sống nhờ mì tôm, thuốc lá, tập bản thảo mà tôi mang đến chỉ nhận được cái lắc đầu của anh: “Đáng ra em phải viết thế, viết thế…”. Tôi chấp nhận thất bại như một cậu học trò ngoan. Tôi bước ra khỏi khung cửa thất bại, lấy xe phóng ra con đường thất bại… tất cả đều bàng bạc một thứ bụi buồn.
Nhưng cho đến một ngày, khi ngồi bên tách trà đá bên đường, tôi nhận ra trong tờ báo bị xé rời mà ai đó để quên có một truyện dài kì mà nội dung đúng như những gì tôi đã viết. Mừng quá, tôi lật đến trang cuối xem phần tên tác giả nhưng phần đó đã bị rách. Tôi hào hứng phóng xe như bay đến gặp anh ta. Vẫn khuôn mặt đó, cặp kính trắng và nụ cười khó tả ấy, anh ta nói không hề biết gì, đã ném bản thảo của tôi đi đâu đó, lục không ra. Tôi tìm đến tòa soạn báo đòi gặp người này, người kia. Ném về phía tôi bảng nhuận bút, chị phụ trách Trị sự bảo: “Tên người ta đấy, lù lù còn gì? Thời này thật giả lẫn lộn lắm…”.
Tôi thực sự đang ngồi trên chiếc xe trở về chứ không phải một giấc mơ. Cha tôi từng bảo trên núi có giống chè cổ, mẹ tôi từng nói trong vườn mình cây cà phê giờ được giá. Tôi nghe thấy lòng vui. Hình như khi tôi còn đi học có người thày từng nói: Có những sắc màu mà chỉ cuộc sống mới có chứ không một họa sĩ nào tạo ra được đó là sự ngậm ngùi. Tôi không dễ dàng gì để trở về nơi mình sinh ra, lớn lên, để ném đồng quần áo cũ bám đầy bụi bặm xuống cái chậu nhôm to tướng, để múc nước bể ra tắm một lần thật đã đời. Ôi, tôi đã được trở về nhà như một ngày xưa dẫu vẫn đầy ắp đắng cay ngậm ngùi…
>> Truy cập vào sự kiện của cuộc thi trên Fanpage Tiin TẠI ĐÂY