Ông Nguyễn Văn Đ. (SN 1955, ngụ quận 8, TP HCM) hỏi: Tôi quen bạn gái 25 tuổi, quá trình quen nhau tôi có cho bạn gái mượn 100 triệu đồng bằng cách chuyển khoản nhiều lần. Bây giờ chia tay, tôi có đòi lại số tiền đã cho mượn nhưng bạn gái tôi không trả. Tôi phải làm sao để đòi lại số tiền đã cho mượn đúng pháp luật?
Ảnh minh họa
Luật sư Lưu Tấn Anh Toàn (Giám đốc Công ty Luật Lưu Vũ) trả lời: Khi tiền được chuyển vào tài khoản ngân hàng, trong trường hợp này sẽ có biên lai hoặc thông báo xác nhận của ngân hàng là đã thực hiện việc chuyển khoản từ tài khoản ngân hàng của người này sang tài khoản ngân hàng của của người khác.
Tuy nhiên việc chuyển khoản này không thể chứng minh đã vay tiền mà đôi khi có thể hiểu số tiền chuyển khoản là để thanh toán hộ cho bên thứ ba hoặc thực hiện một nghĩa vụ khác.
Vì vậy, muốn đòi lại được số tiền đã cho mượn thì người chuyển khoản phải có căn cứ chứng minh người nhận chuyển khoản đã vay tiền của mình. Ví dụ như giấy tờ ghi nợ mà người nhận chuyển khoản đã viết và kí tên người vay rõ ràng, hoặc tin nhắn hỏi vay tiền, hay cuộc trò chuyện điện thoại giữa hai bên về nội dung vay tiền này đã được ghi lại hoặc bằng một hình thức trao đổi giữa hai bên có chứng cứ. Chỉ khi có căn cứ này thì đơn khởi kiện đòi tiền cho vay tại toà án mới có thể được thụ lý.
Theo quy định tại Điều 25, 33 Bộ luật Tố tụng Dân sự thì ông có thể gửi đơn đến tòa án nhân dân cấp huyện nơi người nhận chuyển khoản đang cư trú yêu cầu giải quyết, kèm theo đơn là các bằng chứng chứng minh đã cho người kia vay tiền.
Theo quy định trên nếu đáp ứng các điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự, việc thỏa thuận vay nợ giữa các bên dù không có giấy vay nợ thì vẫn hợp pháp và người cho vay hoàn toàn có thể đòi nợ người vay.
Do đó, sau khi thu thập được các tài liệu, chứng cứ nêu trên thì người cho vay có thể khởi kiện tại tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự theo Điều 119, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về hình thức giao dịch dân sự.
Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể; giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.
Ngoài ra, tại Điều 463, Bộ luật Dân sự 2015 quy định hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay. Khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
Cũng tại khoản 1, Điều 466, Bộ luật Dân sự 2015 quy định bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.