Ngay từ năm 1497, hạm đội Châu Âu đã đến Newfoundland ở Bắc Mỹ và nhận thấy rằng có rất nhiều cá ở đây. Kể từ đó, nhiều thuyền đã đến Newfoundland để đánh cá hàng năm. Tại đó, các thủy thủ đoàn tìm thấy một con chim lạ, chúng có bụng trắng, lưng đen, cánh nhỏ, không biết bay, nhưng lại là những bậc thầy bơi lặn. Họ đặt tên cho loài chim này là auk lớn (Pinguinus impennis, an ca lớn).
Sau đó, những người Châu Âu đã phát hiện ra một loài chim không biết bay khác ở Nam bán cầu cũng có màu lông và các đặc điểm tương tự, sau đó họ đặt cho chúng cái tên 'penguin', ngày nay chúng ta gọi là chim cánh cụt. Có thể nói, những con chim cánh cụt ở Nam Cực hiện có đã được đặt tên theo loài chim kỳ lạ ở Bắc bán cầu này. Tất nhiên, không có nhiều mối liên hệ về mặt tiến hóa giữa cả hai, nhưng sự tiến hóa hội tụ do môi trường sống gần như giống hệt nhau mang đã khiến an ca lớn và chim cánh cụt có nhiều điểm tương đồng.
Chim an ca lớn cũng giống như chim Dodo, chúng đều là những loài chim không có khả năng bay và chúng cũng từng sống trên nhiều hòn đảo khác nhau ở Đại Tây Dương. Những chú chim an ca lớn có kích thước và ngoại hình rất giống với chim cánh cụt còn tồn tại ngày nay, vì vậy chúng còn được gọi là Chim cánh cụt lớn ở Bắc Cực. Cơ thể của nó là rất dày và nhiều mỡ và đó là trùng hợp lại là nghĩa của từ pinguis trong tên của nó là tiếng Latin.
Vì đôi cánh của loài an ca lớn đã bị thoái hóa nên chúng chỉ có thể sử dụng đôi cánh để lướt nhẹ trên mặt nước. Khi lặn xuống nước, nó sẽ tiếp tục vung cánh và tạo lực đẩy cho cơ thể.
Thường loài chim này rất ít khi lên trên cạn trừ mùa sinh sản. Chúng là loài chim thích các hoạt động tập thể và thường tụ tập thành đàn lên tới hàng trăm con, cùng nhau lênh đênh trên biển hoặc lặn xuống biển để săn cá nhỏ, tôm, v.v.
Loài chim này có đời sống một vợ một chồng suốt đời. Khả năng sinh sản của chim auk lớn cực kỳ thấp, mỗi năm chỉ đẻ một quả trứng, mỗi lần ấp, hai chim bố mẹ phải ấp luân phiên nhau 1 tháng rưỡi.
Khi dân số trên đảo không ngừng tăng lên, cuộc sống yên bình của chim an ca lớn cũng bị phá vỡ hoàn toàn.
Loài chim này có tính cách hiền lành, không sợ con người, vì to lớn nên khi chạy chúng rất chậm chạp, thường chúng chỉ chạy được một đoạn ngắn theo đường thẳng và rất dễ bị bắt. Bởi vậy những người thủy thủ thường lấy chúng làm nguồn thức ăn chính.
Một báo cáo của Aaron Thomas thuộc Hải quân Hoàng gia Anh vào năm 1794 đã mô tả cách những con chim an ca lớn bị tàn sát một cách có hệ thống:
'Nếu bạn đến để lấy lông của chúng, thì việc giết chúng sẽ không gây ra quá nhiều khó khăn, chỉ cần bắt lấy một con và nhổ ra những chiếc lông tốt nhất. Sau khi làm xong, bạn chỉ cần ném con vật tội nghiệp sang một bên, chúng sẽ bán khỏa thân run rẩy trong gió lạnh, và nó sẽ chết dần chết mòn. Đây không phải là một phương pháp thân thiện, nhưng nó là một thực tế phổ biến'.
Đảo Elder ngày nay vẫn là thiên đường cho các loài chim di cư, nhưng nó cũng nơi ẩn náu cuối cùng của loài an ca lớn, cho tới năm 1843.
Bi kịch không chỉ bắt nguồn từ lòng tham của con người, mà còn từ sự thiếu hiểu biết. Vào tháng 7 năm 1840, con chim an ca lớn cuối cùng của Anh bị giết trên đảo Scotland. Ba người từ St Kilda đã tóm lấy nó và nhận thấy những đốm trắng kỳ lạ trên đôi cánh nhỏ của con chim này. Họ đã trói nó lại để sống trên thuyền ba ngày cho đến khi có bão biển. Họ nghĩ rằng con chim an ca này là một phù thủy, và chính nó đã gây ra cơn bão nên quyết định giết chết nó.
Nhóm cuối cùng của những con chim an ca con sống là trên Geirfuglasker ở Iceland. Hòn đảo nhỏ này được bao quanh bởi những vách đá núi lửa khiến con người không thể tiếp cận được. Tuy nhiên, vào năm 1830, hòn đảo nhỏ bị nhấn chìm bởi một vụ phun trào núi lửa. Điều này khiến cho chúng phải di chuyển đến đảo Elder gần đó, nơi con người có thể tiếp cận từ một phía. Vào năm 1835, con người đã phát hiện ra 50 con an ca lớn trên đảo Elder. Nhận thấy rằng loài này đang chuẩn bị tuyệt chủng, cho nên các mẫu vật và trứng của loài chim này bỗng chốc trở thành món hàng để người giàu săn đón và bổ sung vào bộ sưu tập quý hiếm. Bởi vậy con người đã đổ bộ lên đảo Elder để giết auk lớn và thu thập trứng chim.
Vào ngày 3 tháng 7 năm 1844, để đáp ứng nhu cầu của một doanh nhân muốn một mẫu vật của loài chim này, ba ngư dân Iceland đã bắt những con chim an ca cuối cũng còn tồn tại trên Trái Đất và vô tình bóp nát quả trứng đang nở của chúng.
Jacques Cartier (một nhà hàng hải người Pháp, ông là người đầu tiên thám hiểm và vẽ lại cửa và bờ của dòng sông Saint-Laurent) đã viết trong nhật ký thám hiểm của mình: 'Trong vòng chưa đầy nửa giờ, chúng tôi đã bắt được lượng chim đủ để chất đầy hai chiếc thuyền nhỏ. Thu thập chúng còn dễ hơn cả việc nhặt đá trên đường'.