Diva từ trước đến nay vẫn luôn là mỹ từ cao quý dành cho giới nghệ sĩ nữ theo đuổi xu hướng vocalist (tập trung vào giọng hát). Nó luôn là giấc mơ, khát khao tột bậc của họ, là nấc thang cao nhất mà họ muốn vươn tới để khẳng định sự nghiệp của mình.
Nhưng Diva có những quy chuẩn vô cùng khắt khe mà rất ít nữ ca sĩ có thể đạt được, gồm:
- Phải có một giọng hát xuất chúng và quý hiếm, hoặc là rất đẹp, hoặc là rất đặc biệt.
- Phải thực hiện được hàng loạt những kỹ thuật thanh nhạc tinh xảo ở mức điêu luyện.
- Phải có một tư duy, khả năng cảm nhạc, thẩm mỹ âm nhạc xuất chúng.
- Phải có sự sáng tạo, cách tân và cống hiến to lớn với dòng nhạc, lĩnh vực âm nhạc mình theo đuổi.
- Phải có ảnh hưởng lớn tới công chúng và một bộ phận thế hệ ca sĩ sau đó.
Theo tiếng Ý cổ, Diva là 'nữ thần âm nhạc'. Nó được dùng đầu tiên ở giới hàn lâm, để chỉ những Prima Donna (nữ ca sĩ hát chính) đỉnh cao trong Opera và nhạc thính phòng. Trải qua lịch sử hàng trăm năm, chỉ có số ít Diva Opera như sau:
Maria Callas
Maria Callas luôn được xem là Diva số 1 thế giới, ở tầm cỡ thiên tài.
Callas sở hữu loại giọng toàn năng (assoluta) cực hiếm. Trong cùng một lúc, bà có thể hát với giọng nữ cao kịch tính đầy uy lực, âm lượng đanh thép, khổng lồ và nữ cao màu sắc, với những biến tấu hoa mỹ trên các note cao vút, rồi đưa đẩy sang nữ cao trữ tình với làn hơi mượt mà.
Maria Callas
Thậm chí, Callas có thể hát cả vai của nữ trung với độ tối đầy đủ, xuống tận âm sắc của nữ trầm, âm vực của nam cao, nam trung.
Không những vậy, bà còn đạt tới cảnh giới của việc diễn bằng giọng hát, với khả năng tạo bão cảm xúc.
Những người từng làm việc chung còn đánh giá bà có một khả năng cảm nhạc thiên tài và sự lao động vô cùng nghiêm túc. Bất cứ vai diễn nào Callas động vào cũng đều thành công xuất sắc, trở thành kinh điển cho các thế hệ sau này. Giới nghe Opera thường xưng tụng bà bằng danh hiệu La Divina (Nữ thần).
Maria Callas hát Casta Diva
Maria Callas chính là người làm sống lại nghệ thuật Bel canto của Opera Ý vốn đã ngủ quên từ lâu, để biến nó thành chuẩn mực lớn nhất trong nền Opera đương đại.
Với những cống hiến to lớn ít ai sánh kịp, Callas được tôn sùng là kinh thánh của Opera, và cũng là ca sĩ đầu tiên được trao tặng danh hiệu Diva. BBC ưu ái xếp bà vào vị trí số 1 trong danh sách 20 soprano vĩ đại nhất thế kỉ XX.
Joan Sutherland
Được BBC xếp ngay thứ hai trong danh sách 20 soprano vĩ đại nhất mọi thời đại, Joan Sutherland luôn được coi là một đối thủ đáng gờm của Callas trong kịch mục Bel canto. Thậm chí, chính Callas khó tính đã từng thốt lên rằng: 'Cô ấy đã bỏ sự nghiệp của tôi lại phía sau những 100 năm'.
Khác với Callas, Sutherland không phải một giọng toàn năng, cũng không phải một bậc thầy về diễn xuất, nhưng lại nắm trùm ở kịch mục dành cho nữ cao màu sắc, mà đến chính Callas cũng không thể đọ lại được.
Joan Sutherland
Sở hữu chất giọng nữ cao kịch tính bẩm sinh, nhưng nhờ công sức luyện tập bền bỉ, Sutherland gần như chuyển hẳn sang loại giọng màu sắc của Bel canto với sự mềm mại, ngọt ngào đến khó tin.
Ở mảng này, bà được cho là một bậc thầy với chất giọng đẹp, càng lên cao lại càng sáng đẹp một cách lạ lùng với những kĩ thuật vô cùng khó khăn, tinh xảo, nhưng chuẩn mực đến từng cm.
Những note D6, Eb6 của bà gần như không có đối thủ vì nó quá đẹp, lúc thì phóng ra với âm lượng khổng lồ, chắn ngang cả dàn nhạc, lúc lại biến tấu hoa mĩ một cách siêu phức tạp.
Joan Sutherland hát Sempre Libera
Cùng với Callas, Sutherland đã thiết lập đế chế mới dành cho loại giọng nữ cao màu sắc (coloratura soprano). Nếu trước đó, các giọng nữ cao màu sắc thường nhỏ nhẹ, mảnh mai thì tới hai Diva này, nó đã trở nên khổng lồ, kịch tính, thể hiện trọn vẹn tác phẩm và tạo bão cảm xúc cho khán giả.
Giới Opera thường ưu ái ngợi ca Joan Sutherland bằng danh xưng La Stupenda (Tuyệt diệu).
Birgit Nilsson
Birgit Nilsson xứng đáng với danh hiệu giọng nữ cao kịch tính vĩ đại nhất mọi thời đại. Bà là nữ ca sĩ đạt tới đỉnh cao nhất trong trường phái Opera kịch tính của Wagner (dù trước đó đã có tên tuổi lớn khác là Kirsten Flagstard).
Khác với các giọng nữ cao kịch tính (dramatic soprano) khác vốn có âm sắc hơi tối kiểu nữ trung, Nilsson sở hữu âm sắc sáng rực như một nữ cao màu sắc.
Birgit Nilsson
Giọng hát này rất hiếm, vì dù sáng và cao vút nhưng lại không mảnh, nhẹ mà lại chắc nịch, đanh thép, khổng lồ đúng nghĩa kịch tính thực sự. Rất khó để tìm thấy giọng nữ cao kịch tính nào vừa ngồn ngộn, lại sáng hơn cả ánh đèn pha như vậy.
Đặc biệt hơn nữa, càng ở tuổi trung niên, giọng của Nilsson lại càng sáng ra và đẹp lộng lẫy, đậm tính sử thi.
Bà cũng là một trong số rất ít nữ cao kịch tính có thể giữ giọng lâu bền mà không hề có dấu hiệu mất giọng, dù phải hát thường xuyên những vai kịch tính nặng trong suốt sự nghiệp.
Birgit Nilsson hát in questa reggia
Nilsson 'nắm trùm' ở lối hát 'project' âm thanh, với những note B5, C6 được phóng ra trên âm lượng khổng lồ, đanh thép, xuyên thủng một dàn nhạc, mà lại vô cùng chuẩn mực, chính xác đến không ngờ.
Giọng hát ấy nếu tung note cao sẽ xé nát không gian như cỗ máy chém, nhưng khi hát nhẹ nhàng lại tráng lệ như một tòa cung điện.
Từ nhạc hàn lâm, Diva được du nhập sang nhạc đại chúng, để định danh số ít ca sĩ đẳng cấp. Dù không có khái niệm cố định, nhưng có thể tạm thời định nghĩa Diva là một nữ ca sĩ có giọng hát, tài năng xuất chúng và tầm ảnh hưởng vĩ đại tới âm nhạc.
Whitney Houston
Nếu Diva đầu tiên là Maria Callas, thì Whitney Houston chính là ca sĩ thứ nhất của nền âm nhạc đại chúng được vinh danh bằng mỹ từ cao quý này.
Whitney sở hữu một chất giọng đẹp bẩm sinh, với âm sắc hiếm có trong giới nhạc Pop, khiến cả ca sĩ Opera cũng phải ao ước.
Whitney Houston
Với lợi thế loại giọng spinto soprano, âm sắc giọng của Whitney có sự pha trộn đặc biệt giữa chất to khỏe, đanh dày của ca sĩ da màu (sắc thái kịch tính) với chất ngọt ngào, bay bổng, mềm mại của ca sĩ da trắng (sắc thái trữ tình), rất thích hợp để phô diễn vocal trong nhạc Pop.
Trong giới ca sĩ da màu, Whitney được xem là người có khả năng điều khiển âm lượng giọng hát tinh tế và vận dụng các kĩ thuật hát đẹp của Bel canto vào nhạc Pop một cách thành công nhất.
Chính cô cũng là người phổ biến lối hát melisma đầy ngẫu hứng vào Pop/R&B trên những quãng head voice. Rất nhiều nữ ca sĩ pop ngày nay khi sử dụng head voice đều chịu ảnh hưởng từ cô.
Những quãng belt từ G4 đến E5 sở trường với kĩ thuật vibrato siêu đẳng, cùng cách nhấn nhá, nhả chữ, phát âm, biến tấu giọng hát và cách đẩy âm thanh lên vòm tạo tiếng nổ đặc trưng của Whitney luôn được xem là nguồn cảm hứng bất tận với nhiều thế hệ ca sĩ.
Whitney Houston hát I will always love you
Về mặt đại chúng, Whitney đã lập kỉ lục Guiness với danh hiệu ca sĩ nhận được nhiều giải thưởng nhất. Cô cũng là nữ ca sĩ da màu đầu tiên thành công trên MTV, đạt kỉ lục 7 ca khúc đứng thứ nhất bảng xếp hạng Billboard hot 100 liên tiếp.
Whitney còn đứng thứ ba trong danh sách những nữ nghệ sĩ có lượng tiêu thụ đĩa lớn nhất nước Mỹ với hơn 200 triệu đĩa được bán ra.
Tầm ảnh hưởng lớn nhất của Whitney là đã khơi nguồn một lối hát mới, lối hát phô diễn giọng hát nội lực, khỏe khoắn dành riêng cho những giọng ca nữ nhạc Pop, mở ra một thời kì âm nhạc mới, quyền lực mới cho mọi thế hệ ca sĩ nữ sau này.
Cách hát tràn trề năng lượng, luôn tươi vui, sáng tạo, ngẫu hứng mọi lúc mọi nơi để tạo bão cảm xúc của Whitney luôn được xem là nguồn cảm hứng bất tận cho âm nhạc.
Mariah Carey
Song hành cùng Whitney để kiến tạo nên thành trì của Diva nhạc Pop chính là Mariah Carey.
Mariah sở hữu quãng giọng cực rộng, lên tới 5 quãng 8, trải dài từ những note thấp đến cực cao trong âm vực của con người.
Note G#7 tại MTV VMAs 1991 mà Mariah lên tới đã từng được ghi vào kỉ lục Guiness thế giới. Nhưng trên thực tế, cô đã từng lên tới Bb7.
Mariah Carey
Điều khiến Mariah trở thành ca sĩ sử dụng whistle thành công nhất là cô có thể điều khiển whistle trên những quãng rất cao một cách linh hoạt, mềm mại với vô số những kĩ thuật màu sắc phức tạp như trills, run, staccato... Cách vận dụng whistle của Mariah là nguồn cảm hứng lớn nhất để các giọng màu sắc trong nhạc Pop học hỏi và theo đuổi.
Cô cũng chính là người phổ biến kĩ thuật melisma trên những quãng belt, khai phá lối hát falsetto kèm theo yodeling đầy tinh tế, phức tạp, ảnh hưởng mạnh mẽ tới nhiều thế hệ ca sĩ sau này. Tuy nhiên, chưa có ca sĩ nào vận dụng được nó như cô.
Là một nữ cao màu sắc, nhưng Mariah có thể hát một cách mượt mà, thoải mái ở quãng trầm hệt như một nữ trầm đích thực, một điều kì lạ hiếm thấy trong nhạc pop.
Cách điều khiển giọng hát lên xuống phức tạp, chuyển giọng vô cùng linh hoạt từ chest/mix sang head/fal liên tiếp trên các chuỗi note trong một legato, cộng với việc áp dụng những kĩ thuật đặc trưng riêng khiến các ca khúc của Mariah trở thành sự bức tử với giọng hát, nên hầu như không ai dám cover nhạc của cô.
Mariah Carey hát Forever
Điểm đặc biệt nhất ở Mariah so với các diva còn lại là khả năng sáng tác và sản xuất âm nhạc cực tốt của cô. Hầu hết những hit lớn của Mariah (đặc biệt là 17 trong số 18 ca khúc no1 Billboard hot 100) đều do cô tham gia sáng tác và tổ chức sản xuất. Cô cũng đứng thứ ba trong top những nữ nhạc sĩ có nhiều hit nhất Billboard hot 100.
Về mặt đại chúng, Mariah là nữ ca sĩ đạt kỉ lục với 18 ca khúc đứng thứ nhất Billboard hot 100. Cô cũng đứng thứ 2 trong top những nữ nghệ sĩ Mỹ có lượng tiêu thụ đĩa lớn nhất thế giới.
Aretha Franklin
Nếu Whitney và Mariah tác động đến thế giới thì Aretha lại là đàn chị ảnh hưởng sâu sắc tới chính hai Diva này, cũng như nhiều ca sĩ khác.
Aretha sở hữu một giọng hát đẹp, kịch tính và nội lực hiếm thấy của loại giọng falcon soprano, với chất đanh thép, âm lượng lớn.
Kĩ thuật của bà luôn được xếp vào bậc chuẩn mực nhất nền âm nhạc đại chúng.
Những note belt F5, F#5, G5 của Aretha từ lâu đã thành thương hiệu vì sự hoàn hảo tuyệt vời của nó. Barbra Streisand từng thốt lên: 'Tôi mơ ước những note cao của Aretha'.
Aretha Franklin
Aretha được đánh giá là có khả năng cảm nhạc vượt trội hơn hẳn các ca sĩ đại chúng khác, giúp tạo ra những giai điệu đầy ma mị, ngẫu hứng nhưng rất khó thực hiện bằng cả giọng hát lẫn tài năng chơi piano xuất thần.
Nhiều người làm việc với Aretha từng nói rằng bà có thể cảm nhận được những giai điệu, tiết tấu mà ca sĩ thông thường khó mà nhận thấy và thể hiện nó vào âm nhạc. Những kĩ thuật mixed voice, melisma, nhấn nhá, nhả chữ, chạy scat singing của bà ảnh hưởng không nhỏ tới các Diva nhạc pop thế hệ sau.
Aretha Franklin hát Don't play that song for me
Được mệnh danh là Queen of soul, Aretha đã đưa dòng nhạc da màu này đến đỉnh cao nhất. Không chỉ ca hát, bà còn luôn dùng âm nhạc để đấu tranh nhân quyền, hoạt động xã hội tích cực.
Bởi thế, Aretha từng nhận tới hai bằng tiến sĩ danh dự tại hai đại học lớn của nước Mỹ. Tạp chí The Times đã xếp bà vào top 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất thế kỉ XX, đứng chung với hàng loạt vĩ nhân ở mọi lĩnh vực khác, điều mà các Diva còn lại không thể làm được.Cả 6 Diva hàng đầu trên đều là thần tượng của rất nhiều ca sĩ Việt Nam như Tùng Dương, Thu Minh, Hồng Nhung, Mỹ Linh, Uyên Linh... và khiến họ học hỏi được nhiều thứ.
Chú thích thuật ngữ thanh nhạc: - Note trầm: C3/C#3, D3/D#3, E3, F3/F#3, G3/G#3, A3/A#3, B3. - Note trung: C4/C#4, D4/D#4, E4, F4/F#4, G4/G#4, A4/A#4, B4. - Note cao: C5/C#5, D5/D#5, E5, F5/F#5, G5/G#5, A5/A#5, B5. - Note rất cao: C6/C#6, D6/D#6, F6/F#6, G6/G#6, A6/A#6, B6. - Mixed voice: Hát pha giữa chest voice và head voice. Trong mixed voice có full mixed (hát pha toàn giọng) và light mixed (hát pha nửa giọng). - Vibrato: Ngân rung. - Piano: Kĩ thuật hát nhỏ giọng vừa phải. - Airy voice: Âm hơi. - Full lirico soprano: Nữ cao đầy đặn. - Falsetto: Giọng gió. - Head voice: Giọng đầu. - Chest voice: Giọng ngực. - Support: Hỗ trợ các vị trí âm thanh và kĩ thuật trong ca hát. - Strain: Hát căng thẳng. - Cadenza: Biến tấu hoa mĩ không có trong tổng phổ gốc. - Staccato: Hát ngắt. - Trillo: Rung láy. - Legato: Hát liền giọng. - Pianissimo: Vuốt nhỏ tiếng. - Voice project: Phóng âm. - Diminuendo: Hát nhỏ đột ngột. - Phân loại giọng theo ngũ cung: Giọng thổ, giọng thủy, giọng hỏa, giọng mộc, giọng kim. |