Tán thành đổi tên Thẻ Căn cước
Theo báo cáo thẩm tra được Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng - An ninh Lê Tấn Tới trình bày tại phiên họp toàn thể Quốc hội sáng 25-10, việc sử dụng tên gọi Luật Căn cước thể hiện rõ tính khoa học, bao quát được phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của luật gồm cả công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam đang sinh sống tại Việt Nam nhưng chưa xác định được quốc tịch, phù hợp với bản chất và mục tiêu quản lý căn cước của Nhà nước ta; phù hợp với phương thức quản lý trong thời kỳ công nghiệp 4.0, xây dựng Chính phủ số, xã hội số.
“Việc sử dụng tên gọi Thẻ Căn cước như dự thảo luật là phù hợp, sẽ bao hàm được đầy đủ thông tin về căn cước của công dân. Ngoài ra, với việc mở rộng, tích hợp nhiều thông tin vào Thẻ Căn cước vừa nhằm hướng tới mục tiêu quản lý nhà nước về căn cước toàn diện hơn, đầy đủ hơn, vừa tạo thuận lợi cho người dân trong việc sử dụng thông tin cá nhân”, ông Lê Tấn Tới nhận định. Việc đổi tên Thẻ Căn cước như dự thảo luật Chính phủ trình không làm phát sinh thủ tục, chi phí đổi thẻ với người dân. Theo đó, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho giữ tên Luật Căn cước và tên Thẻ Căn cước như Chính phủ trình.
Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng - An ninh Lê Tấn Tới
Về giấy chứng nhận căn cước và quản lý người gốc Việt Nam, đa số ý kiến trong UBTVQH nhất trí việc cấp giấy chứng nhận cho người gốc Việt Nam chưa xác định được quốc tịch. Tuy nhiên, một số ý kiến đề nghị làm rõ và nghiên cứu quy định cụ thể về tiêu chí, điều kiện để xác định và cấp giấy chứng nhận căn cước; quyền và nghĩa vụ của người gốc Việt Nam chưa xác định được quốc tịch, giá trị 2 pháp lý của giấy chứng nhận căn cước, cơ quan có thẩm quyền quản lý cũng là những vấn đề cần quy định cụ thể.
Ý kiến khác đề nghị nghiên cứu quy định đầy đủ các nội dung liên quan đến căn cước của người gốc Việt Nam, bảo đảm thuận tiện trong công tác quản lý nhà nước đối với đối tượng này và phù hợp quy định của dự thảo luật.
Tiếp thu ý kiến của các ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo chuyển điều này về Chương III (Điều 30), đổi tên Chương III thành “Thẻ Căn cước, giấy chứng nhận căn cước” và chỉnh lý toàn diện điều này; bổ sung đầy đủ hơn về quyền và nghĩa vụ của người gốc Việt Nam chưa xác định được quốc tịch.
Làm rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý căn cước
Liên quan đến thông tin của công dân, UBTVQH nêu rõ, dự thảo luật quy định chỉ cập nhật các trường thông tin trong thực tế quản lý đã rõ, được sử dụng thường xuyên, cần có trong cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Điều này quy định 7 trường thông tin bắt buộc người dân phải cung cấp (nếu các trường thông tin này chưa có hoặc chưa đầy đủ). Các trường thông tin còn lại là những thông tin nhằm bảo đảm quyền lợi của công dân khi sử dụng các tiện ích, giá trị do cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đem lại; các thông tin này sẽ được cập nhật trên nguyên tắc tự nguyện và được chia sẻ qua các cơ sở dữ liệu chuyên ngành để phục vụ các giao dịch hành chính, dân sự.
Quang cảnh Hội trường Diên Hồng
Ngoài ra, dự thảo luật cũng có những quy định bảo đảm độ an toàn cao, bảo đảm kiểm soát an ninh mạng tốt nhất, bảo vệ ở mức cao nhất đối với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và cơ sở dữ liệu căn cước.
Về một số ý kiến đề nghị rà soát để bảo đảm thống nhất với quy định của pháp luật hiện hành, chỉ nên thể hiện những thông tin mang tính chất ổn định, không trùng lặp; cân nhắc một số thông tin chưa phù hợp; đề nghị không nên sử dụng QR Code, chỉ nên dùng chip điện tử trên Thẻ Căn cước…
UBTVQH nhận định, các thông tin thể hiện trên Thẻ Căn cước đã được đánh giá cụ thể, bảo đảm không trùng lặp giữa các trường thông tin, thống nhất giữa các loại giấy tờ tùy thân phổ biến hiện nay của công dân, tương thích với các quy định của pháp luật có liên quan. Đồng thời, để tạo thuận lợi hơn cho người dân trong quá trình sử dụng Thẻ Căn cước, việc tích hợp cả QR Code và chip điện tử trên Thẻ Căn cước nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng thông tin công dân khi thực hiện các thủ tục hành chính, giao dịch dân sự.
Tiếp thu ý kiến của các đại biểu, UBTVQH đã chỉ đạo nghiên cứu, chỉnh sửa một số trường thông tin, bổ sung quy định cụ thể về thông tin được mã hoá, lưu trữ trong bộ phận lưu trữ trên Thẻ Căn cước. Chỉ khi phát hiện có sự khác nhau giữa thông tin trên Thẻ Căn cước với thông tin trong căn cước điện tử mới yêu cầu đối chiếu, không yêu cầu phải so sánh, đối chiếu thông tin trong mọi trường hợp.
Đáng lưu ý, về trách nhiệm của cơ quan quản lý căn cước trong việc khóa, mở khóa căn cước điện tử, trên cơ sở ý kiến đại biểu và qua xem xét, đánh giá nội dung dự thảo luật, UBTVQH cũng cho rằng, quy định việc khóa, mở khóa căn cước điện tử theo đề nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ như dự thảo luật trình kỳ họp 5 là chưa đủ căn cứ vững chắc, có thể dẫn đến xâm phạm quyền công dân và gây thiệt hại cho công dân. UBTVQH đã bổ sung 1 khoản làm rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý căn cước trong việc khóa, mở khóa căn cước điện tử của công dân.
Hiện nay, cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã kết nối với 13 bộ, ngành và 63 địa phương; việc kết nối, khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư phục vụ nhiều hoạt động trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; đồng thời cơ quan chức năng đã cấp được gần 80 triệu Thẻ Căn cước công dân cho công dân đủ điều kiện.