Quy định nhằm bảo vệ tối đa quyền lợi cho phụ nữ và trẻ em
Những ngày vừa qua, nhận được nhiều phản hồi và tranh luận nhất là 1 nội dung của Nghị quyết số 01/2024 do Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao ban hành. Trong đó hướng dẫn về việc: 'Chồng không có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn trong khoảng thời gian dưới 12 tháng tính từ ngày vợ sinh con. Trường hợp vợ đang có thai, sinh con thì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn mà không phân biệt vợ có thai, sinh con với ai'.
Đây thực chất là quy định đã có từ lâu. Từ Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 cho tới lần bổ sung và sửa đổi vào năm 2014, tại điều 51, cũng đã tiếp tục quy định 'chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi'. Điều đáng nói là nội dung hướng dẫn mới nằm ở cuối: 'không phân biệt vợ có thai, sinh con với ai'.
Với nội dung này, có thể hiểu rằng, nếu người vợ vi phạm nghĩa vụ một vợ một chồng dẫn tới có thai với người đàn ông khác thì người chồng cũng không có quyền ly hôn trong khoảng thời gian người vợ đang mang thai, sinh con theo luật định. Mục đích là để bảo vệ tối đa quyền lợi cho phụ nữ và trẻ em trong giai đoạn mà cả người mẹ và đứa trẻ đều dễ bị tác động tiêu cực từ các yếu tố bên ngoài, trong đó có việc ly hôn.
'Bất mãn', 'Khó chịu', 'Áp đặt đàn ông, thiên vị phụ nữ' là cảm xúc mà nhiều khán giả chia sẻ với hướng dẫn bổ sung trong quyền ly hôn của người đàn ông. Bởi lẽ, quy định này dẫn đến xung đột với quy định về quyền được ly hôn đơn phương khi một bên vi phạm nghĩa vụ vợ chồng (ngoại tình), trong những trường hợp như vậy thì gia đình không thể có hạnh phúc trong giai đoạn này và bi kịch gia đình có thể kéo dài.
Luật không cấm quyền ly hôn từ người vợ trong thời gian mang thai
Theo Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội, quy đinh mới đưa ra để dễ cho tòa án xử lý và giải quyết các vụ việc ly hôn. Tuy nhiên nên chia thành 2 hướng.
'Một là nếu vợ không có tội, mang thai do bị hãm hiếp, xâm hại thì rất cần người chồng ở bên cạnh. Còn trường hợp 2, nếu vợ cố tình ngoại tình dẫn đến có thai, có thái độ thách thức, khiêu khích thì người đàn ông sẽ thiệt thòi' – luật sư Cường cho biết.
Theo luật sư, Luật không cấm quyền ly hôn từ phụ nữ. Nên trong trường hợp này, hòa giải viên xem xét để động viên người vợ thuận tình ly hôn. Còn trong trường hợp kéo dài, dẫn tới xung đột, bạo lực gây nguy hiểm đến bà mẹ và trẻ em thì cần cách ly.
'Đây là quy định tốt để Tòa án giải quyết các vụ việc về ly hôn và tranh chấp. Cũng để thực hiện mục đích nhân đạo. Tuy nhiên cũng rất cần mềm mại trong quá trình thực hiện' - Luật sư Đặng Văn Cường nói.
Như vậy, Luật không cấm quyền ly hôn từ người vợ trong thời gian mang thai hay sinh con. Vì vậy, nếu thực sự cuộc hôn nhân đã không thể hòa giải và cứu vãn thì chính người vợ đang cầm chìa khóa cho sự giải thoát.
Luật không cấm người đàn ông ly hôn, mà chỉ là xem xét trì hoãn ly hôn. Để giải quyết vấn đề tâm lý thì có rất nhiều cách, ví dụ ở riêng cho tới khi hết thời hạn quy định.
Cuối cùng, pháp luật trước hết thể hiện tư tưởng nhân đạo của một nhà nước pháp quyền. Quy định cũng đi đúng theo mục đích nhân đạo, bảo vệ phụ nữ và trẻ em trong thời điểm dễ tổn thương nhất.
Còn yếu tố 'bất kể có con với ai' nằm ở góc độ đạo đức hôn nhân và quy phạm xã hội. Kết hôn là tự nguyện, ly hôn là sự đồng thuận, đừng để ngoại tình là lý do cho những bi kịch mà ở đó sự tổn thương và tác động tiêu cực tới vợ hoặc chồng và con cái là không nhỏ. Bởi vậy mà pháp luật cũng đã quy định rất rõ, người có hành vi ngoại tình có thể bị xử phạt vi phạm hành chính từ 3 đến 5 triệu đồng hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự với khung hình phạt đến 3 năm tù.