TAND quận Cẩm Lệ, nơi diễn ra phiên tòa xét xử ly hôn giữa ông B và bà T. Ảnh: Công Phương.
Nguồn gốc tài sản hình thành trong hôn nhân
Tại phiên tòa, ông B và bà T đồng thuận ly hôn. Cả hai đều đề nghị được nuôi 2 con chung và không yêu cầu bên kia phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về phần tài sản, trình bày tại tòa, bà N.T.H.T cho biết, bà yêu cầu tòa án chia đôi tài sản chung và cả khoản nợ trong thời kỳ hôn nhân của bà và ông Bảo, gồm: 1 phần vốn góp Công ty M.Đ trị giá 1 tỉ đồng và 8 bất động sản.
8 bất động sản gồm: ngôi nhà tại địa chỉ số 419 - 421 đường Nguyễn Hữu Thọ, phường Khuê Trung, quận Cẩm Lệ, Đà Nẵng trị giá 27 tỉ đồng; quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số 21 và 22, tờ bản đồ số 7, diện tích đất 150,2m2 tọa lạc tại khu dân cư khách sạn căn hộ và thương mại dịch vụ 2.9, phường Bình Thuận, quận Hải Châu, Đà Nẵng. Mỗi lô đất này được xác định giá là 37,5 tỉ đồng; quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số 148, diện tích đất 90m2 tại địa chỉ Lô 36, khu B2.2, khu đô thị mới Nam Bắc Mỹ An, phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng, trị giá 3,6 tỉ đồng.
Tại Quảng Nam, bà T và ông B có những bất động sản chung hàng trăm m2 có giá trị như sau: quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số 251, tờ bản đồ số 15, diện tích đất 120m2 tọa lạc tại địa chỉ Khu tái định cư phục vụ dự án đường Điện Biên Phủ, phường An Mỹ, TP Tam Kỳ, Quảng Nam, trị giá 6 tỉ đồng; quyền sử dụng đất 288,75m2, có địa chỉ Khu tái định cư ven biển Duy Hải, thôn Tây Sơn Đông, xã Duy Hải, huyện Duy Xuyên, trị giá 3 tỉ đồng.
Quyền sử dụng đất có diện tích đất 400m2, địa chỉ Khu tái định cư hồ Đông Tiễn, xã Bình Trị, huyện Thăng Bình, trị giá 200 triệu đồng; quyền sử dụng đất có diện tích đất 319m2, địa chỉ Khu đô thị số 3 phường Điện Ngọc, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam trị giá 3,5 tỉ đồng. Tổng 9 tài sản trị giá 118,3 tỉ đồng.
Về khoản nợ, bà T trình bày có 7 khoản nợ chung với số tiền là hơn 25 tỉ đồng.
Tại phiên tòa, bà N.T.H.T cho biết, đã nhiều lần đề nghị ông B cùng thỏa thuận ly hôn trong đó có vấn đề về phân chia tài sản. Bà T chỉ muốn nhận, phần góp vốn của Công ty TNHH Phát triển Giáo dục M.Đ là 1 tỉ đồng và ngôi nhà tại địa chỉ số 419 - 421 đường Nguyễn Hữu Thọ, phường Khuê Trung, quận Cẩm Lệ, Đà Nẵng có giá trị 27 tỉ đồng; tổng số tài sản bà T nhận là 28 tỉ đồng.
Trình bày tại tòa, bà H.T cho biết, ông B và bà D (chị gái ông B) khai, là cho tặng vào năm 2021. Tuy nhiên, bà T đã nộp đơn đề nghị tòa triệu tập đại diện Công ty Quang Đại Việt, Công ty Đại Thịnh vì bà và ông B có góp vốn 20 tỉ đồng. Bên cạnh đó, bà D mượn bà sổ tiết kiệm 5 tỉ đồng để thế chấp vay ngân hàng.
Cùng với đó là đầu năm 2019, bà T và ông B bán tài sản chung ở thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam được khoảng 23 tỉ đồng. Số tiền này mẹ chồng bà T cầm để xây dựng nhà ở 419 - 421 đường Nguyễn Hữu Thọ và bà bỏ thêm tiền mua Lô đất ở đường 30/4, Đà Nẵng để cho 2 con ông B.
Sau đó, dùng mảnh đất trên và số tiền 20 tỉ đồng, số tiền 5 tỉ để hoán đổi sang 02 lô đất tại khu dân cư khách sạn căn hộ và thương mại dịch vụ 2.9, phường Bình Thuận, quận Hải Châu, Đà Nẵng.
'02 lô đất tại khu dân cư khách sạn căn hộ và thương mại dịch vụ 2.9, phường Bình Thuận, quận Hải Châu, Đà Nẵng bản chất là hoán đổi còn hình thức là tặng cho giữa bà D cho ông B. Bằng chứng bà T đã nộp cho TAND và vi bằng về các tin nhắn trao đổi', đại diện ủy quyền của bà N.T.H.T nhấn mạnh.
Tại phiên tòa, ông B không đồng ý đưa 2 lô đất tại khu dân cư khách sạn căn hộ và thương mại dịch vụ 2.9, phường Bình Thuận, quận Hải Châu, vào tài sản chung và cho rằng đây là tài sản ông được chị gái cho tặng.
Về khoản nợ, ông B không đồng ý nợ chung với 2 khoản nợ bà H.T nợ của Công ty Kim Ngưu và hộ kinh doanh Hồng Thắm, trị giá hơn 7 tỉ đồng.
Nợ chung thì chia 5-5 còn tài sản thì chia 8-2?
Tại phiên tòa, bà T khẳng định, thửa đất tại số 419 - 421 đường Nguyễn Hữu Thọ, phường Khuê Trung, quận Cẩm Lệ, Đà Nẵng là tài sản chung vì ông B đã tự nguyện chia cho bà 50% tài sản này và bà đứng tên trên tài sản năm 2021.
“Tổng số tài sản chung là 118,3 tỉ đồng và nợ chung là hơn 25 tỉ đồng. Sau khi bù trừ thì số tài sản trong thời gian hôn nhân của chúng tôi là hơn 93 tỉ đồng. Vậy với con số 28 tỉ đồng tôi muốn nhận được chỉ bằng 30% so với tổng giá trị tài sản. Tuy nhiên ông B vẫn không đồng ý hòa giải với nội dung trên” - bà T chia sẻ.
Trình bày tại tòa, ông B cho rằng, tài sản trong thời kỳ hôn nhân là do bố mẹ ông cho. Ông không đồng ý chia 50-50 tài sản và vẫn giữ ý kiến đề nghị chia số tài sản còn lại theo tỉ lệ cho bản thân là 80%, bà T nhận 20% sau khi đã thanh toán các khoản nợ và chia bằng tài sản hiện vật có giá trị tương ứng.
Đồng thời, trong 7 khoản nợ, ông B không đồng ý 2 khoản nợ bà T vay của Công ty Kim Ngưu và hộ kinh doanh Hồng Thắm.
Tại phiên tòa, luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà T đề nghị HĐXX xem xét tài liệu có trong hồ sơ, tuyên bà T được nhận 50% tài sản chung. Và cho rằng, nếu phân chia tài sản theo tỉ lệ 8-2 thì phần tiền còn lại của bà T còn rất ít, không thể lấy lại căn nhà bà T và con trai đang ở. Luật sư Hà cho rằng, đưa ra chia tài sản theo tỉ lệ 8-2 là không có căn cứ.
Cùng phần tranh luận, luật sư cho rằng, ông B đã nhiều lần trình bày không đúng sự thật. Cụ thể, ông B trình bày không có chuyện hoán đổi đất nhưng xác nhận tin nhắn giữ bà T, ông Bảo, bà D là có thật.
Tiếp theo, ông B khai không đúng về số tiền 23 tỉ đồng bán đất ở Tam Kỳ, trong đó có 5 tỉ gửi sổ tiết kiệm. Tại tòa, bà T đã khẳng định sổ tiết kiệm 5 tỉ đồng mở năm 2018 trong khi bán nhà đất ở Tam Kỳ đầu năm 2019?
HĐXX đã tuyên, công nhận việc thuận tình ly hôn giữa bà T và ông B. Giao L.P.N.M (SN 2012) cho bà N.T.H.T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục tinh thần, giao L.P.H.Đ (SN 2017) cho ông Lê Phước Hoài B trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục tinh thần. Hai bên không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con cho bên nào. Các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ nuôi con chung theo quy định của pháp luật.
Về tài sản chung và nợ chung, xác định tổng tài sản chung của 2 vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là 7 tài sản trị giá 44,3 tỉ đồng. Nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là hơn 18 tỉ đồng. Tổng tài sản sau khi khấu trừ nợ chung của 2 vợ chồng là hơn 26 tỉ đồng. Sau khi khấu trừ khoản nợ chung, chia tài sản theo tỉ lệ ông B nhận 70%, bà T nhận 30%.
Như vậy, cùng với 2 khoản nợ tổng trị giá 10 tỉ đồng không được thừa nhận là khoảng nợ chung, số tiền bà T nhận được sau vụ ly hôn là âm hơn 2 tỉ đồng.