Ảnh minh họa
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính, trên thế giới cứ 160 người thì có 1 người tự kỷ. Tự kỷ là một rối loạn lan tỏa sự phát triển do bất thường của não bộ xuất hiện sớm trong những năm đầu đời. Trẻ bị tự kỷ có những biểu hiện kém tương tác xã hội, bất thường về ngôn ngữ, giao tiếp và hành vi. Nếu các dấu hiệu báo động của tự kỷ không được phát hiện kịp thời để cha mẹ đưa trẻ đi thăm khám và can thiệp, hội chứng rối loạn của não bộ càng trở nặng.
Trẻ tự kỷ thường có các dấu hiệu sau:
Thứ nhất, hạn chế tương tác với người khác trong nhiều bối cảnh: gọi tên ít quay lại; hạn chế tiếp xúc mắt với cha mẹ và người khác; không chia sẻ điều trẻ thích; không chia sẻ cảm xúc; không chơi chung; thiếu tương tác với mọi người; khó khăn trong việc chơi đòi hỏi trí tưởng tượng hoặc kết bạn…
Thứ hai, trẻ giảm khả năng giao tiếp: chậm nói; không thể hiện ngôn ngữ cơ thể; hay nhại lời; phát âm thanh lạ vô nghĩa; không hiểu và không biết sử dụng cử chỉ, điệu bộ trong giao tiếp…
Thứ ba, trẻ có các hành vi lặp đi lặp lại: thích tự xoay tròn; thích nhìn vật xoay tròn; thích sắp xếp đồ vật thành hàng thẳng; khó thích nghi với những thay đổi mới; lăng xăng tăng động…
Cho đến nay, các nhà khoa học vẫn chưa đưa ra được những con số xác thực để kết luận về nguyên nhân nào đưa đến bệnh tự kỷ. Mỗi cách tiếp cận khác nhau đưa ra những giả thuyết khác nhau về căn bệnh như cấu tạo não bất thường, thiếu cân bằng về kích thích tố, dị ứng, di truyền, nhiễm độc thủy ngân, thiếu sinh tố, hở màng ruột, căn nguyên tâm lý, tổn thương trong khi sinh…
Tuy nhiên, tựu trung tự kỷ được xem là một khuyết tật bẩm sinh. Tự kỷ không phải là hậu quả của việc cha mẹ thiếu chăm sóc trẻ hay do phản ứng phụ của các loại vaccine như nhiều người vẫn nghĩ.
Thuật ngữ 'tự kỷ' xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1911. Nhà tâm thần học Eugen Bleuer (Thụy Sĩ) đã sử dụng thuật ngữ này để mô tả một nhóm các triệu chứng nhất định được coi là các triệu chứng giai đoạn đầu của bệnh tâm thần phân liệt.
Năm 1943, tại Mỹ, bác sĩ tâm thần trẻ em Leo Kanner mô tả tự kỷ là một chứng rối loạn xã hội và cảm xúc trong bài báo 'Rối loạn tự kỷ về mặt cảm xúc', tách biệt người mắc chứng tự kỷ ra khỏi nhóm bệnh nhân thần kinh. Ông nhận thấy tính cách lạnh lùng ở những người mẹ có con tự kỷ.
Năm 1944, bác sỹ người Áo Hans Asperger đã xuất bản 'Bài báo về Tâm thần học tự kỷ' mô tả tự kỷ là một rối loạn ở trẻ em có trí thông minh bình thường nhưng gặp khó khăn đối với các kỹ năng xã hội và giao tiếp. Những bài báo này đóng góp một phần quan trọng vào những công trình nghiên cứu trong năm 1980 nhằm phân biệt tự kỷ với bệnh tâm thần phân liệt.
Khoảng năm 1950, thuyết 'Bà mẹ tủ lạnh' do nhà tâm lý học trẻ em Bruno Bettelheim (người Mỹ gốc Áo) truyền bá, đã kết tội cha mẹ lạnh lùng là nguyên nhân làm trẻ em bị tự kỷ.Năm 1964, Bernard Rimland, một nhà khoa học Mỹ có con tự kỷ, đã viết nhiều công trình khoa học khẳng định tự kỷ là một rối loạn sinh học, không phải là một chứng bệnh về cảm xúc.
Thuyết 'Bà mẹ tủ lạnh' sụp đổ dần trên thế giới.Vào năm 2007 Đại hội đồng Liên hợp quốc đã ra Nghị quyết 62/139 ấn định ngày 2 tháng 4 hằng năm là Ngày Thế giới nhận thức về tự kỷ và được thông qua vào ngày 18/12/2008.
Năm 2013, khái niệm 'phổ tự kỷ' được Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ đưa vào ấn bản thứ năm của cuốn 'Sổ tay Chẩn đoán và Thống kê các Chứng Rối loạn Tâm thần' sau khi kết hợp tất cả các phạm trù nhỏ và các tình trạng có liên quan đến tự kỷ thành một phạm trù thống nhất, bao gồm các đặc điểm khác nhau, mức độ nghiêm trọng và biểu hiện của các triệu chứng.
Các nước 'ứng xử' với chứng tự kỉ ra sao?
Mỹ là quốc gia đi đầu trong việc nghiên cứu về tự kỷ và có những chính sách tích cực dành cho người tự kỷ.Hiện nay, tự kỷ đặc biệt tăng mạnh tại Mỹ.
Theo báo cáo của Trung tâm Kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (CDC) của Mỹ đưa ra vào đầu năm 2020, tỷ lệ người tự kỷ của năm 2020 tăng lên khá nhiều so với số liệu thống kê của năm 2016, cụ thể, 1,85% so với 1,12% .
Tỷ lệ trẻ mắc tự kỷ tại Mỹ vẫn tăng mạnh hằng năm trong khi chi phí điều trị, chăm sóc đối với hội chứng này vẫn không hề giảm, dẫn tới việc Mỹ phải chi một khoản phí tương đối lớn. Trung bình chi phí được chi ra để điều trị cho trẻ tự kỷ tại Mỹ lên tới 268 tỷ đô la vào năm 2015 và dự tính sẽ lên đến 461 tỷ đô la vào năm 2025. Như vậy, chi phí điều trị cho trẻ em mắc phải hội chứng này tương đương 61 đến 66 tỷ đô la một năm, cao hơn 4,1 đến 6,2 lần so với những người không mắc chứng tự kỷ.
Canada đặt ra câu hỏi: Chi trả bây giờ hay sau này? Nhờ quyết định đầu tư cho những nghiên cứu và những dịch vụ can thiệp sớm nên Chính phủ nước này đã đem lại sự tiến bộ cho trẻ tự kỷ, bớt đi gánh nặng tài chính trong tương lai khi người tự kỷ trưởng thành.
Nhật Bản có chính sách hỗ trợ toàn diện cho người tự kỷ cho đến cuối đời: học tập lúc nhỏ, việc làm, nhà xã hội khi trưởng thành; truyền thông về tự kỷ rất mạnh mẽ: báo chí, truyện tranh, phim truyền hình…
Tại Thái Lan, tự kỷ được khẳng định là khuyết tật trong Luật Người khuyết tật và người tự kỷ được miễn phí hoàn toàn các dịch vụ chăm sóc giáo dục đến hết bậc đại học.
Tại Brunei, Philippines, Malaysia, Chính phủ và các tổ chức xã hội mở các trung tâm can thiệp, giáo dục nhận thức cộng đồng, hỗ trợ việc làm, thúc đẩy nghiên cứu chuyên môn…