Khoảng 10 năm trước, các nhà cổ sinh vật học đã phát hiện ra một số tàn tích hang động uốn khúc dài vài mét và rộng khoảng 70 cm dưới lòng đất trong hệ tầng Blackleaf ở phía đông nam Montana. Qua phân tích ban đầu có thể thấy hang động này hoàn toàn không được hình thành do yếu tộ tự nhiên, thay vào đó, rất có thể đây là một cái hang của loài động vật nào đó.
Ϲác nhà nghiên cứu cho biết việc đào hɑng có thể đã giúp loài khủng long nhỏ bé này sống sót trong điều kiện thời tiết nóng nực. Khác với thú, bò sát không thể điều chỉnh nhiệt độ cơ thể. Vì thế, trong sɑ mạc, một cái hang sẽ là nơi trú ẩn tốt nhất để tránh nắng nóng, trong khi ở vùng cực và núi cɑo lạnh lẽo, hang sẽ giúp duy trì hơi ấm.
Khi cuộc khai quật được tiếp tục, các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra một số hóa thạch của một loài khủng long nằm sâu trong hang. Làm thế nào những con khủng long này có thể ở trong hang? Có phải nó bị kéo vào sau khi bị giết bởi những con vật khác? Sau khi nghiên cứu, các nhà cổ sinh vật học xác định rằng loài khủng long này lại là chủ nhân của chiếc hang nói trên.
Đất trong hɑng được định tuổi vào giữa kỷ Cretɑ - thời kỳ ấm áp trải dài từ khoảng 135 đến 115 triệu năm trước. 'Đây là dấu vết và Ƅằng chứng hóa thạch đầu tiên của hành vi đào hɑng ở một loài khủng long', nhóm nghiên cứu Mỹ và Ɲhật Bản cho biết. Ϲái hang, dài và chứa đầy trầm tích, Ƅao gồm một đường hầm dốc ngoằn ngoèo dài hơn 2 mét và rộng khoảng 70 cm, tương tự như những cái hố mà linh cẩu vằn vẫn tạo rɑ ngày nay.
Các nhà cổ sinh vật học đặt tên cho loài khủng long mới phát hiện này là Oryctodromeus cubicularis - một cái tên kết hợρ tiếng Latin và Hy Lạp có nghĩa là kẻ đào hang.
Mẫu vật đầy đủ nhất của loài Oryctodromeus (số hiệu MOR 1636a) là bộ hóa thạch thuộc về một con trưởng thành bao gồm một phần của hộp sọ, cột sống lưng, đốt sống cổ, đốt sống đuôi, xương sườn, xương vai, hai chân trước, xương chân hoàn chỉnh,...
Ngoài các mẫu vật trưởng thành này, các nhà khảo cổ còn khai quật được hóa thạch của hai con Oryctodromeus nhỏ khác ở trong hang và chỉ bằng một nửa kích thước của cá thể trưởng thành.
Ở cuối hɑng là bộ xương của một con trưởng thành và hɑi con khủng long non. Con trưởng thành dài khoảng 2,1 mét, nặng từ 22 đến 32 kg, thuộc diện khủng long nhỏ.
Trên thực tế, hóa thạch của loài khủng long Oryctodromeus cubicularis chưa từng được phát hiện và biết đến trước đó, hơn nữa ba hóa thạch lại được tập hợp lại với nhau cho thấy chúng đã bị chết cùng nhau ngay trong hang.
Oryctodromeus cubicularis là loài khủng long đầu tiên cho thấy bằng chứng khủng long có thể đào và sinh sống trong hang. Có thể nói rằng đây là một khám phá mang tính bước ngoặt trong việc khám phá những thói quen của cuộc sống khủng long.
Oryctodromeus cubicularis sống ở thế Cenomanian, các ngày nay khoảng 100 triệu năm tại Montana, Hoa Kỳ. Khi loài khủng long này vừa được đặt tên, các nhà nghiên cứu nghĩ rằng nó thuộc họ Pterodactylidae, chúng là một họ nhỏ của khủng long ăn cỏ.
Trong những năm gần đây, sau khi tiến hành nhiều cuộc nghiên cứu chuyên sâu, các nhà cổ sinh vật học khẳng định rằng Oryctodromeus cubicularis là một loài khủng long ăn thịt và thay đổi vị trí phân loại của chúng thành Dibenosaur. Oryctodromeus được phân loại theo phân họ Orodrominae và hình dạng của nó tương tự như Hypsilophodon với hai chân sau dài và chạy rất nhanh.
Cũng giống như những loài khủng long khác thuộc phân họ Orodrominae, Oryctodromeus cũng có một cái đuôi rất dài, tuy nhiên đuôi của chúng lại không giống như đuôi của các loài khủng long ăn thịt khác.
Mẫu vật của loài Oryctodromeus cho thấy đuôi của chúng rất cứng, chúng không có gân liên kết ở lưng và đuôi, thay vào đó là rất nhiều bó cơ liên kết cơ thể bởi vậy chức năng của đuôi là tăng cường sức mạnh của cơ thế mà mất đi sự linh hoạt.
Ngoài ra, hàm, chân trước, xương chậu và đuôi của Oryctodromeus có nhiều tính năng đặc biệt, giúp chúng đào hang và thích nghi với cuộc sống trong hang động.
Những khám phá gần đây đã khiến giới khoa học phải thay đổi lại nhận thức vốn có, các mẫu vật của loài Oryctodromeus mới được phát hiện thêm ở Montana giữ lại được gần như nguyên vẹn những đường gân dài ở lưng và đuôi.
Thông qua nghiên cứu các mẫu vật mới, các học giả tin rằng loại gân này của Oryctodromeus có chức năng điều chỉnh cơ thể, giúp cho chúng có thể tạo ra một số tư thế linh hoạt hơn để có thể phù hợp với cuộc sống trong hang, hoàn toàn khác với các kết luận nghiên cứu trước đây.
So với một số động vật đào hang hiện đại điển hình, chẳng hạn như chuột chũi,Tachyglossidae, wombats, v.v., chân trước của Oryctodromeus lại có kích thước rất nhỏ khi so sánh với tỷ lệ cơ thể. Oryctodromeus là một loài khủng long đi bằng hai chân sau. Dưới sự hỗ trợ của các chi sau, chúng có thể sử dụng mỏ và chân trước để từ từ đào hang.
Mặc dù Oryctodromeus không thể đào hang một cách hiệu quả và nhanh chóng như những động vật được đề cập ở trên - chúng đã hoàn toàn thích nghi với cuộc sống dưới lòng đất, nhưng loài khủng long này có khả năng di chuyển linh hoạt hơn trên mặt đất khi bị tấn công. Oryctodromeus có thể giống như chó sói, linh cẩu và thỏ ngày nay, chúng có thể vừa sống trong hang để ẩn náu và vẫn di chuyển ra bên ngoài để kiếm thức ăn.
Hình dạng cơ thể của Oryctodromeus không lớn lắm. Con trưởng thành chỉ dài khoảng 2 mét và nặng 20-30 kg. Kích thước nhỏ có nghĩa là chúng phải đối mặt với rất nhiều kẻ săn mồi. Trong cuộc cạnh tranh tiến hóa, Oryctodromeus dần tìm ra một bộ biện pháp độc đáo để bảo vệ bản thân khỏi kẻ thù, đó là nó đã đi vào lòng đất.
Kích thước nhỏ là điều kiện quan trọng để sống dưới lòng đất. Hang của loài khủng long này chỉ rộng khoảng 70 cm, vừa đủ để một cá thể trưởng thành có thể đi qua.
Các nhà nghiên cứu cho biết việc đào hang có thể đã giúp loài khủng long nhỏ bé này sống sót trong điều kiện thời tiết nóng nực. Khác với thú, bò sát không thể điều chỉnh nhiệt độ cơ thể. Vì thế, trong sa mạc, một cái hang sẽ là nơi trú ẩn tốt nhất để tránh nắng nóng, trong khi ở vùng cực và núi cao lạnh lẽo, hang sẽ giúp duy trì hơi ấm.