Trong gần một thập niên qua, công tác thăng hạng chức danh nghề nghiệp cho giáo viên đã được triển khai trên phạm vi toàn quốc với quy mô lớn.
Tuy nhiên, đằng sau con số hàng trăm nghìn giáo viên được nâng hạng là không ít nghịch lý, vướng mắc khiến nhiều thầy cô đủ điều kiện nhưng vẫn 'đứng ngoài' cơ hội thăng hạng, ảnh hưởng trực tiếp đến động lực nghề nghiệp và quyền lợi tiền lương.
Theo đó, 65.502 giáo viên được thăng từ hạng IV lên hạng III; 153.792 giáo viên từ hạng III lên hạng II; và chỉ 7.428 giáo viên từ hạng II lên hạng I.
Nhiều địa phương thăng hạng với số lượng lớn
Số liệu cho thấy nỗ lực đáng kể của các địa phương trong việc tổ chức xét, thi thăng hạng. Nghệ An có tổng cộng 24.855 giáo viên các cấp được thăng hạng; Hà Nội có 22.769 giáo viên được thăng từ hạng III lên hạng II; Hải Phòng thăng hạng cho 19.115 giáo viên, trong đó có tới 3.090 giáo viên được thăng từ hạng II lên hạng I; Thanh Hóa tổ chức thăng hạng cho 12.777 giáo viên.
![]()
Sau gần thập kỷ, hơn 200.000 giáo viên được thăng hạng.
Kết quả này bao gồm các kỳ thăng hạng do Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) tổ chức (năm 2018, 2020), các đợt chuyển xếp theo Thông tư 01, 02, 03/2021/TT-BGDĐT, cũng như các kỳ thăng hạng do địa phương tổ chức theo thẩm quyền, chủ yếu ở ngạch từ hạng III lên hạng II.
Tuy nhiên, bức tranh thăng hạng không hoàn toàn 'màu hồng'.
Đủ điều kiện nhưng… không có chỉ tiêu
Theo Bộ GD&ĐT, vướng mắc lớn nhất hiện nay là giới hạn cơ cấu, tỷ lệ hạng chức danh nghề nghiệp. Cụ thể, hạng I tối đa không quá 10%, hạng II không quá 50%, còn lại là hạng III và tương đương.
Thực tế tại nhiều địa phương cho thấy, nhu cầu thăng hạng cao hơn nhiều so với chỉ tiêu được phân bổ. Không ít giáo viên đủ tiêu chuẩn, điều kiện, có thành tích nổi bật nhưng vẫn không được xét thăng hạng vì đơn vị đã 'chạm trần' tỷ lệ.
Điều này khiến giáo viên thiệt thòi về chế độ tiền lương, đồng thời làm giảm động lực phấn đấu lâu dài.
Giai đoạn 2016–2025 cũng là thời kỳ hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến thăng hạng giáo viên có nhiều điều chỉnh. Sự thay đổi liên tục này khiến không ít địa phương gặp khó trong quá trình triển khai, từ xác định tiêu chuẩn đến tổ chức xét, thi.
Bên cạnh đó, sự chồng chéo trong phân định thẩm quyền giữa quy định của Bộ GD&ĐT và quyết định phân cấp của địa phương cũng gây lúng túng. Ở một số nơi, công tác tham mưu, tổ chức thăng hạng còn thiếu kinh nghiệm, quy trình chưa bài bản, dẫn đến việc rà soát, triển khai không thường xuyên, kịp thời.
Đáng chú ý, khi phân cấp về địa phương, có nơi hiểu chưa thống nhất văn bản, yêu cầu giáo viên cung cấp các minh chứng không cần thiết, như chứng chỉ ngoại ngữ, tin học, trong khi Bộ đã cho phép đơn vị sử dụng lao động trực tiếp xác nhận, đánh giá năng lực này.
Một thực tế khác là không phải địa phương nào cũng tổ chức thăng hạng đều đặn. Trước tháng 7/2025, vẫn có một số huyện chưa tổ chức bất kỳ kỳ thăng hạng nào. Hệ quả là nhiều giáo viên dù đủ điều kiện vẫn không có cơ hội đăng ký xét hoặc dự thi.
Việc sắp xếp đơn vị hành chính, phân cấp thẩm quyền về cấp xã cũng phát sinh thêm khó khăn khi đội ngũ công chức cấp xã thiếu chuyên môn, kinh nghiệm trong lĩnh vực giáo dục.
Đối với các trung tâm giáo dục nghề nghiệp – giáo dục thường xuyên, do thay đổi đơn vị chủ quản nhiều lần, công tác thăng hạng càng ít được quan tâm.
![]()
Việc triển khai thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên đã mang lại kết quả tích cực, bảo đảm quyền lợi của giáo viên, tạo động lực cho giáo viên tăng cường học hỏi.
Trước những vướng mắc kéo dài, ngày 15/12, Bộ GD&ĐT tạo đã ban hành văn bản đôn đốc các địa phương khẩn trương hoàn thiện việc bổ nhiệm và thăng hạng chức danh nghề nghiệp cho giáo viên, bảo đảm đúng vị trí việc làm và đúng quy định.
Bộ GD&ĐT cũng yêu cầu tiếp tục rà soát, tổ chức thăng hạng cho giảng viên cao đẳng sư phạm, giáo viên và giảng viên giáo dục nghề nghiệp theo thẩm quyền, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương; đồng thời thực hiện thống nhất các tiêu chuẩn, điều kiện xét thăng hạng theo các thông tư mới được ban hành.
Trong bối cảnh yêu cầu đổi mới giáo dục ngày càng cao, việc khơi thông 'điểm nghẽn' thăng hạng không chỉ là câu chuyện chế độ, chính sách, mà còn là yếu tố then chốt để giữ chân, tạo động lực và phát huy năng lực đội ngũ giáo viên, lực lượng quyết định chất lượng giáo dục trong dài hạn.