Ảnh minh hoạ
Xung quanh việc Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước công bố danh sách hơn 1200 giáo sư và phó giáo sư mới được phong năm 2017, mời độc giả cùng Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn đang sinh sống tại Úc mổ xẻ việc phong hàm giáo sư cũng như tâm lý sinh giáo sư hiện nay của người Việt.
- Hiện nay tại Việt Nam có hai luồng ý kiến nên để hai mô hình đó là do quốc gia phong hàm và phân cho trường. Theo ông, Việt Nam nên chọn mô hình nào?
GS Nguyễn Văn Tuấn: Tôi thì nghiêng về xu hướng để cho trường đại học phụ trách việc đề bạt và bổ nhiệm chức vụ giáo sư. Vấn đề là quản lí qui trình bổ nhiệm, tiêu chuẩn học thuật, và nhất là thành phần của hội đồng bổ nhiệm. Chúng ta có thể tham khảo cách làm ở nước ngoài. Một đại học có một 'hội đồng khoa bảng', hội đồng này bao gồm các thành viên cấp giáo sư trong và ngoài trường, trong nước và quốc tế. Nếu trường không đủ thành viên có tư cách khoa học, thì có thể mời thành viên từ ngoài, và điều này rất bình thường. Hồ sơ của ứng viên được gửi ra ngoài để bình duyệt, và sau khi có bình duyệt, hội đồng chỉ phỏng vấn ứng viên và ra quyết định.
Nhưng tôi cũng hiểu tại sao vẫn còn tồn tại cách làm 'trung ương hóa' như hiện nay. Ở Việt Nam, nhiều khi 'nói vậy mà không phải vậy', hay có nhiều tiêu chuẩn và qui trình được đặt ra rất hợp lí, nhưng khi trao về cho trường và địa phương thì xảy ra nhiều vấn đề. Mỗi trường có một lịch sử phát triển và nhu cầu riêng, cho nên tiêu chuẩn cũng khác nhau. Do đó, tôi nghĩ cần phải có quản lí qui trình, nhưng không can thiệp vào nội bộ của trường.
- Như GS Tuấn có nói đã đến lúc chúng ta giải tán hội đồng chức danh giáo sư nhà nước, và giao việc bổ nhiệm giáo sư về cho trường đại học. Nhưng với một môi trường vốn 'sính danh' như ở Việt Nam thì việc giao cho trường có đạt được những GS thật đúng như mình mong muốn không, kinh nghiệm học hỏi cho Việt Nam là gì?
- Ở các nước như Mĩ và Úc, chức danh giáo sư thường gắn liền với một trường đại học hay một viện nghiên cứu. Do đó, khi nói 'giáo sư' người ta phải kèm theo tên trường. Ngay cả ở Úc và Mĩ, giáo sư cũng có nhiều đẳng cấp. Trường danh tiếng có tiêu chuẩn đề bạt và bổ nhiệm cao hơn trường kém danh tiếng hay trường địa phương. Nhưng tôi nghĩ dù là trường nào thì cũng phải làm theo một qui trình chuẩn, và một số tiêu chuẩn tối thiểu để tham khảo.
- Theo Giáo sư, ông có nhiều năm nghiên cứu ở Úc cũng như tham dự nhiều hội thảo khoa học trên thế giới. Có nơi nào có chức danh PGS không? Theo ông, Việt Nam có nên bỏ chức danh PGS đi không?
- Tùy theo cách chúng ta dịch thôi. Ở Mĩ có ba bậc giáo sư: Assistant Professor, Associate Professor, và Professor. Tuy danh xưng là 'Assistant' nhưng họ chẳng phụ tá cho ai cả, mà là một nhà khoa học độc lập. Nếu chức danh 'Assistant Secretary' có thể hiểu là 'Thứ Trưởng', thì chức danh 'Assistant Professor' của Mĩ có thể dịch là 'Phó giáo sư'. Nhưng vấn đề ở đây là Việt Nam xem chức danh 'Phó giáo sư' tương đương với chức danh 'Associate Professor' của Mĩ. Theo tôi thì nếu cải cách triệt để, Việt Nam nên có ba bậc giáo sư như Mĩ, vì đó là xu hướng chung trên thế giới.
- Trong lĩnh vực y khoa, ông có đánh giá như thế nào về các công trình nghiên cứu khoa học và việc ngày càng có nhiều bác sĩ cố phấn đấu lên PGS, GS?
- Hiện nay, trong số các giáo sư được công nhận thì số giáo sư y khoa chiếm nhiều nhất. Chẳng hạn như trong năm nay, số người được công nhận giáo sư thuộc ngành y chiếm lệ này cao nhất so với các chuyên ngành khác. Điều này có thể giải thích được, vì công bố quốc tế ngành y sinh học chiếm gần 1/4 tổng số công bố quốc tế từ nghiên cứu khoa học Việt Nam.
Tuy nhiên, có một sự thật khác là đa số những bài báo ngành y từ Việt Nam là do người nước ngoài đứng tên tác giả chính (có lẽ vì họ chủ trì đề tài nghiên cứu) và người Việt chỉ đứng tên tác giả phụ. Theo tôi biết thì hội đồng chưa xem xét đến vị trí và vai trò của tác giả trong các công bố quốc tế. Sự thiếu sót này có thể giúp cho những người chẳng nghiên cứu gì, nhưng do có vai trò quản lí, nên họ có tên trong rất nhiều bài báo khoa học, và do đó họ rất dễ dàng đáp ứng tiêu chuẩn về công bố quốc tế.
- Tôi lấy ví dụ chỉ riêng trong lĩnh vực y khoa ở Việt Nam, nếu người bệnh có bệnh tới bệnh viện hay các phòng khám khám bệnh họ sẽ phải trả số tiền khám gấp đôi thậm chí gấp 3 cho một lần vào để được bác sĩ chỉ định nếu bác sĩ đó là PGS hoặc GS. Theo ông là tâm lý 'sính giáo sư' của người dân có là nguyên nhân nhiều người cố gắng để được phong hàm PGS, GS?
- Về nguyên lí, đề bạt chức lên chức vụ giáo sư là một hình thước tưởng thưởng và ghi nhận những đóng góp của ứng viên cho khoa học và cho trường đại học. Khi đóng góp của ứng viên đạt được tiêu chuẩn sàn thì họ có quyền yêu cầu được đề bạt. Ở nước ngoài, giáo sư hưởng lương cao hơn giảng viên đại học, nhưng mức độ khác biệt không quá đáng kể. Do đó, lương bổng không phải là một động cơ để người ta phấn đấu trở thành giáo sư.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, tôi nghĩ động cơ để xin công nhận chức danh giáo sư có khi xuất phát từ nhu cầu thực tế của cơ sở. Theo tôi biết thì có qui định trường đại học phải có giáo sư hay phó giáo sư và số tiến sĩ mới có thể mở ngành đào tạo. Ở các bệnh viện thì giáo sư được trả tiền khám cao hơn bác sĩ không có danh xưng giáo sư. Tất cả những yếu tố đó có thể giải thích tại sao ngành y có nhiều người xin chức danh giáo sư so với các ngành khác.
Nhưng từ đó vấn đề đặt ra là chức danh giáo sư để làm gì. Ở nước ngoài, người ta phân biệt hai nhóm giáo sư, một nhóm tạm gọi là 'giáo sư chính thống' và một nhóm gọi là kiêm nhiệm. Giáo sư chính thống có nghĩa là những người được trường đại học bổ nhiệm và trả lương. Giáo sư kiêm nhiệm là những người làm trong kĩ nghệ hay bệnh viện, nhưng có đóng góp trong đào tạo cho trường, nên được bổ nhiệm chức vụ giáo sư, tiêu chuẩn ít khắt khe, nhưng trường không trả lương. Giáo sư kiêm nhiệm phải ghi rõ là 'Adjunct Professor' chứ không được ghi 'Professor' trước tên mình. Nhìn theo cách đó thì đa số những giáo sư y khoa ở Việt Nam là thuộc hình thức giáo sư kiêm nhiệm.
Xin cảm ơn ông!